Việt Nam là hiện nay có hai cơ quan chuyên môn quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ, đó là Cục sở hữu công nghiệp thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ và Cục bản quyền tác giả thuộc Bộ Văn hóa thông tin. Ở các địa phương có bộ phận quản lý hoạt động sở hữu công nghiệp nằm trong sở khoa học công nghệ môi trường. Riêng cơ quan Bản quyền tác giả không có bộ phận ở mỗi địa phương mà chỉ có chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh.
Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, số đơn đăng ký xác lập quyền trung bình trên dưới 10.000 đơn/ năm . Trong đó khoảng 12 % là đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích, 11 % về kiểu dáng công nghiệp và 77% là đơn về nhãn hiệu hàng hóa. Theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ(Bộ khoa học – công nghệ) từ năm 1995 đến năm 2002, số đơn đăng ký bảo hộ sáng chế của Việt Nam và nước ngoài năm 1995 là 682 đơn, đến năm 2002 là 1211 đơn (tăng 63% ). Về giải pháp hữu ích, năm 1995 có 65 đơn yêu cầu bảo hộ, năm 2002 có 131 đơn (tăng 67%) . Số bằng độc quyền sáng chế được cấp của năm 1995 là 56.
Trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, tuy không cần phải đăng ký vẫn được bảo hộ, nhưng số lượng các loại hình tác phẩm đăng ký quyền tác giả cũng gia tăng. Tuy nhiên, so với hoạt động sở hữu công nghiệp thì lĩnh vực này còn quá mới trong hệ thống văn bản pháp luật, hệ thống quản lý và hoạt động khai thác, sử dụng quyền tác giả.